Giáo dục Leipzig

Hochschule für Grafik und Buchkunst Leipzig

Đại học

Đại học Leipzig được hình thành từ năm 1409, là một trong những đại học lâu đời nhất tại châu Âu. Người từng đạt giải Nobel, Werner Heisenberg từng làm việc tại đây với vai trò là một giáo sư vật lý (từ 1927 đến 1942), cũng như những người từng đạt giải Nobel khác là Gustav Ludwig Hertz (vật lý), Wilhelm Ostwald (hóa học) và Theodor Mommsen (văn học). Nhưng người là cựu cán bộ giảng dạy của trường gồm có nhá khoáng vật học Georg Agricola, nhà văn Gotthold Ephraim Lessing, triết gia Ernst Bloch, ngời sáng lập tâm lý vật lý học Gustav Theodor Fechner, và nhà tâm lý học Wilhelm Wundt. Trong số các cựu sinh viên nổi danh của trường có nhà văn Johann Wolfgang GoetheErich Kästner, nhà toán học và triết gia Gottfried Leibniz và triết gia Friedrich Nietzsche, nhà hoạt động chính trị Karl Liebknecht, và nhà soạn nhạc Richard Wagner. Thủ tướng Đức từ năm 2006, Angela Merkel, từng học ngành vật lý tại Đại học Leipzig.[30] Đại học có khoảng 30.000 sinh viên.

Học viện Văn học Đức là một bộ phận của Đại học Leipzig, được thành lập từ năm 1955 dưới tên gọi "Johannes R. Becher-Institut". Rất nhiều nhà văn có tiếng đã tốt nghiệp tại học viện này, trong đó có Heinz Czechowski, Kurt Drawert, Adolf Endler, Ralph Giordano, Kerstin Hensel, Sarah và Rainer Kirsch, Angela Krauß, Erich Loest, Fred Wander. Sau khi đóng cửa vào năm 1990, học viện đã được tái lập năm 1995 với đội ngũ giảng viên mới.

Nghệ thuật thị giác và Nhà hát

"Viện Nghệ thuật thị giác" (Hochschule für Grafik und Buchkunst) được thành lập vào năm 1764. Năm 2006, viện có 530 sinh viên ghi danh trong các ngành học về hội họa và đồ họa, thiết kế sách/thiết kế đồ họa, nhiếp ảnh và nghệ thuật truyền thông.

Đại học Âm nhạc và Sân khấu có hàng loạt lĩnh vực khác nhau, từ đào tạo bằng nhạc cụ, âm thanh, giải thích, huấn luyện, nhạc thính phòng piano, chỉ đạo dàn nhạc, chỉ đạo dàn hợp xướng và sáng tác nhạc để phục vụ diễn xuất và kịch nghệ.

Đại học Khoa học Ứng dụng

Đại học Khoa học Ứng dụng Leipzig (HTWK)[31] có xấp xỉ 6200 sinh viên năm 2007 và là cơ sở giáo dục bậc cao lớn thứ hai tại Leipzig. Trường được thành lập vào năm 1992 trên cơ sở hợp nhất một vài trường cũ. Với vai trò là một trường đại học khoa học ứng dụng (tiếng Đức: Fachhochschule) trường cí vị thế is thấp hơn một trường đại học, với phần thực hành được chú trọng hơn. HTWK có nhiều lớp kĩ sư, cũng như khoa học máy tính, toán học, quản trị kinh doanh, quản lý thư viện, nghiên cứu bảo tàng và công tác xã hội. Các cơ sở vật chất của trường chủ yếu nằm tại phía nam thành phố.

Khác

Trường Nghiên cứu Quản lý Leipzig, (tiếng Đức Handelshochschule Leipzig (HHL)), là trường kinh doanh lâu đới nhất tại Đức.

Trong số các viện nghiên cứu nằm tại Leipzig, có ba viện thuộc về Học hội Max Planck là viện Toán học trong Khoa học Tự nhiên Max Planck (Max-Planck-Institut für Mathematik in den Naturwissenschaften), viện Nhận thức con người và Khoa học Não Max Planck (Max-Planck-Institut für Kognitions- und Neurowissenschaften) cùng viện Nhân loại Tiến hóa Max Planck (Max-Planck-Institut für evolutionäre Anthropologie). Có hai viện thuộc Học hội Fraunhofer. Các viện khác là Trung tâm Nghiên cứu Môi trường Helmholtz, một bộ phận của Tổ chức Trung tâm Nghiên cứu Đức Helmholtz, và Viện Nghiên cứu Tầng đối lưu Leibniz.